Bảo hành:
Tình trạng: Còn hàng
Tư vấn hi-fi: 0913238182 - Mrs. Lan * Tư vấn hi-end: 0912616688 - Mr. Huy
Giá bán: Liên hệ
Giới thiệu về lịch sử Paul Mauriat
Paul Mauriat
Paul Mauriat đã được sinh ra và lớn lên ở Marseille, Pháp. Cha ông là một thanh tra bưu điện là người thích chơi piano cổ điển và violin. Paul Mauriat bắt đầu chơi âm nhạc khi 4 tuổi và vào viện the Conservatoire ở Paris ở tuổi 10, nhưng 17 tuổi ông đã đam mê tình yêu nhạc jazz và nhạc popular music. Trong Thế chiến II, Paul Mauriat bắt đầu làm chủ với ban nhạc khiêu vũ và những chuyến hòa tấu lưu diễn khắp châu Âu. Trong những năm 1950 , ông trở thành giám đốc âm nhạc và có ít nhất hai ca sĩ Pháp nổi tiếng là Charles Aznavour và Maurice Chevalier cùng lưu diễn .
Năm 1957 Paul Mauriat lần đầu phát hành EP Paul Mauriat của mình, một đĩa gồm bốn ca khúc do RGM phát hành . Giữa 1959 -1964 Mauriat ghi nhiều album trên nhãn đĩa Bel-Air dưới cái tên Paul Mauriat et Son Orchestre, cũng như sử dụng các bút danh khác nhau của Richard Audrey, Nico Papadopoulos, Eduardo Ruo và Willy Twist, để đem lại âm thanh với cảm nhận âm nhạc tốt hơn trên thị trường quốc tế. Trong thời gian này Paul Mauriat cũng phát hành một số bản thu âm với Les Satellites, nơi ông sáng tạo phối âm giọng hát hài hòa cho các album Slow Rock và Twist (1961) , A Malypense (1962) và Les Satellites Chantent Noel (1964).
Mauriat sáng tác nhạc cho nhiều bộ phim nhạc Pháp ( cũng được phát hành với Bel-Air ), trong đó có Un Taxi Pour Tobrouk (1961), Horace 62 (1962) và Faits Sauter La Banque (1964) .
Ông viết bài hát đầu tiên của mình với André Pascal . Năm 1958 họ đã chiến thắng giải thưởng the le Coq d’or de la Chanson Française với Rendez-vous au Lavendou. Bằng cách sử dụng bút danh của Del Roma, Paul Mauriat đã có vị trí HIT quốc tế đầu tiên của mình với Chariot, người mà ông đã soạn nhạc cùng sự hợp tác với các người bạn là Franck Pourcel ( đồng soạn nhạc ) , Jacques Plante ( lời bài hát tiếng Pháp) và Raymond Lefèvre ( Orchestrator ). Tại Mỹ bài hát được thâu đĩa như I Will Follow Him bởi Little Peggy March và trở thành số 1 trên bảng xếp hạng Billboard trong tất cả các thề loại trong 3 tuần trong năm 1963. Năm 1992 bài hát nổi tiếng trong bộ phim Sister Act với diễn viên Whoopi Goldberg . Gần đây hơn Eminem gồm một trích đoạn trong bài hát của mình Guilty Conscience.
Giữa năm 1967 và năm 1972, ông đã viết nhiều bài hát cho ca sĩ Mireille Mathieu, Mon Crédo ( 1.335.000 bản đã được bán ) , Viens dans ma rue , La Première Étoile , Géant , vv- và một vài bài hát khác, cũng như đã đóng góp 130 bài hát trong bảng xếp hạng của Charles Aznavour .
Năm 1965, ông thành lập Mauriat Le Grand Orchestre de Paul Mauriat và phát hành hàng trăm đĩa nhạc và soạn nhạc thông qua thương hiệu Philips cho 28 năm tiếp theo. Năm 1994, ông ký hợp đồng với công ty thu âm Nhật Bản Pony Canyon , nơi ông thu âm lại một số lượng bổ sung lớn nhất của ông và viết các tác phẩm mới . Mauriat ghi nhiều trong những album trong cả Paris và London , sử dụng một số nhạc sĩ cổ điển tiếng Anh trong các bản ghi âm .
Năm 1968 bìa đĩa nhạc của ông được Andre Popp / Pierre Cour thể hiện trong ca khúc Tình Yêu Màu Xanh ” L’Amour Est Bleu ” ( ” Love Is Blue” ) trở thành ca khúc hay nhất và đứng vị trí số 1 tại Mỹ. Bài hát đã đạt 5 tuần ở vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng. 2 đĩa đơn khác của Paul Mauriat cũng lọt vào bảng xếp hạng tại Mỹ là “Love in Every Room” và tựa đề trong bộ phim ” Chitty, Chitty, Bang, Bang” . ” Love Is Blue” là yếu tố quan trọng để đạt số 1 trên bảng xếp hạng Billboard kể từ khi Tornados đánh cùng ” Telstar ” vào năm 1962 và chỉ có bản đĩa đơn số 1 duy nhất ở Mỹ được thâu âm tại Pháp. Sự thành công của bài hát và album theo đó xuất hiện, Blooming Hits được Paul Mauriat đề ra để viết các bản nhạc với các bài hát nổi tiếng trên thế giới.
Năm 1969, Paul Mauriat bắt đầu tour diễn thế giới đầu tiên của mình Grand Orchestra cùng dàn nhạc, các nước như Mỹ, Canada, Nhật Bản , Hàn Quốc, Brazil và các nước Mỹ Latinh khác.
Năm 1974, phát hành bộ Paul Mauriat một album với sự trải lòng trong âm nhạc của mình. Những bản nhạc kinh điển có tính cổ điển , như like Bach’s “Toccata and Fugue in D Minor”, và Pachelbel’s “Canon”, được thể hiện “Mauriat” spin.
Trong nhiều thập kỷ , một số tác phẩm Paul Mauriat phục vụ như các bài hát âm nhạc cho các chương trình truyền hình của Liên Xô và phim ngắn , chẳng hạn như năm 1977 phim hoạt hình Polygon (film), “In the world of animals” (V mire zhivotnykh) and “Kinopanorama”, cùng với các phim khác.
Paul Mauriat nghỉ hưu năm 1998. Ông đã cho bản cuối cùng của mình trong Concert Sayonara , thu âm trực tiếp tại Osaka , Nhật Bản , nhưng dàn nhạc của ông tiếp tục lưu diễn vòng quanh thế giới trước khi ông qua đời vào năm 2006. Cựu nghệ sĩ dương cầm đầu tiên của Mauriat là Gilles Gambus trở thành nhạc trưởng của dàn nhạc vào năm 2000 và thành công với các tour diễn ở Nhật Bản, Trung Quốc và Nga . Gambus đã làm việc với Paul Mauriat trong hơn 25 năm. Năm 2005, nhạc cổ điển Pháp Horn, Jean-Jacques Justafre tiến hành dàn nhạc trong một tour diễn tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Giàn nhạc giao hưởng của Paul Mauriat là The Paul Mauriat Grand Orchestra đã kết thúc sau cái chết của Maestro vào năm 2006.
Paul Mauriat đã có một tình yêu đặc biệt với đất nước Nhật Bản, nơi ông lưu diễn gần hết trong suốt cuộc đời mình. Vì lý do này, bà Irène Mauriat , góa phụ thừa kế của Paul Mauriat chỉ cho phép một tour diễn đặc biệt do ông Justafré diễn ra vào cuối năm 2009, dưới tiêu đề ” Merci Paul : Paul Mauriat Memorial Concert” . Đây là tour diễn được chỉ định ủy quyền bởi góa phụ của Paul Mauriat sau khi ông chết. Mauriat rất được yêu thích ở Nhật Bản và rất nhiều đĩa LP, CD các bản thâu âm sẵn có hiện nay là được nhập khẩu từ Nhật Bản.
Sau chuyến đi này để tránh nhầm lẫn, bà Irène Mauriat đã ban hành một tuyên bố công khai để nhắc nhở người hâm mộ rằng Paul Mauriat không để lại việc thừa kế âm nhạc. Không có dàn nhạc nào khác được phép sử dụng tên của Paul Mauriat. Khi Paul Mauriat nghỉ hưu từ sân khấu nhạc, ông vẫn hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghệ thuật âm nhạc của mình, chỉ dẫn việc lựa chọn cho dàn nhạc từ người thể hiện, nhạc sĩ và chương trình vv. Ông không bao giờ giao quyền đại diện này và nó theo ước nguyện của mình rằng cuộc sống của dàn nhạc sẽ kết thúc với chính mình.
Ông mất ngày 03 Tháng 11 năm 2006 tại Perpignan nước Pháp , thọ 81 tuổi
A1 | Tombe La Neige |
A2 | Adoro |
A3 | Inch Allah |
A4 | Paris En Colere |
A5 | Une Meche De Cheveux |
A6 | Dalila |
A7 | Mrs Robinson |
A8 | Mon Vieux Paris |
A9 | Du Soleil Plein Les Yeux |
A10 | Aranjuez Mon Amour |
B1 | L’amour Est Bleu |
B2 | La Nuit |
B3 | Un Homme Et Une Femme |
B4 | Jamais Je Ne VivRai Sans Toi |
B5 | Girl |
B6 | Michel |
B7 | La Chanson De Lara |
B8 | Un Tout Petit Pantin |
B9 | Love me, Please Love Me |
B10 | Comme D’habitude |